Trong bối cảnh nhiều nhóm hàng nhập khẩu giảm mạnh hoặc tăng trưởng cầm chừng vì ảnh hưởng dịch Covid-19, sản xuất ngưng trệ, thế nhưng nhập khẩu nhóm sản phẩm than đá lại tăng mạnh gần 50%.
Số liệu của Tổng cục Hải quan và Tổng cục Thống kê cho thấy, trong tháng 7, Việt Nam đã nhập khẩu 4,4 triệu tấn than đá các loại với tổng trị giá 294 triệu USD. Tính lũy kế 7 tháng của năm nay, cả nước đã nhập khẩu gần 36,5 triệu tấn than với kim ngạch 2,6 tỉ USD, trong khi cùng kỳ năm ngoái nhập chỉ khoảng 24 triệu tấn. Đáng lưu ý, trong các thị trường truyền thống mà Việt Nam đang nhập khẩu than đá như Indonesia, Nga, Úc, Trung Quốc…, giá than nhập từ Trung Quốc luôn cao nhất.
Tính trung bình giá than nhập trong 7 tháng qua từ Indonesia khoảng 1,1 triệu đồng/tấn, giá nhập trung bình của tất cả các thị trường cũng khoảng 1,6 triệu đồng/tấn thì than nhập từ Trung Quốc 6,2 triệu đồng/tấn, cao gấp 4 lần so với mức giá trung bình. Năm 2019, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, cả nước nhập khẩu 43,85 triệu tấn than đá, tương đương 3,79 tỉ USD, tăng gần 92% về lượng và tăng hơn 48% về kim ngạch so với năm 2018.
Theo Bộ Công thương, Việt Nam buộc phải tăng nhập khẩu than với số lượng lớn do nhu cầu than cho các nhà máy (NM) nhiệt điện ngày càng tăng.Trong khi đó, lượng than khai thác trong nước ngày càng khó khăn, chi phí tốn kém do phải khai thác dưới độ sâu dẫn đến hiệu quả không cao.Chuyên gia năng lượng, TS Trần Văn Bình (CHLB Đức) cho rằng theo Quy hoạch điện 7 của Việt Nam thì các NM nhiệt điện, NM điện BOT hay NM điện trong các khu công nghiệp, khu chế xuất được phép mua than để phục vụ cho sản xuất điện của NM.Nên việc các NM này có thể tìm mua nguồn than giá rẻ để phục vụ sản xuất là bình thường. “Sản lượng than nhập khẩu tăng mạnh trong mấy năm qua tỷ lệ thuận với số NM nhiệt điện “mọc” lên tại Việt Nam. Với 24 NM điện than, trong đó 20 NM đang dùng công nghệ đốt lò hơi sử dụng than cám chất lượng thấp và than phun, nên nhìn chung các NM điện than đa số dùng than chất lượng thấp, giá rẻ để vận hành. Đó là chưa tính hàng chục NM nhiệt điện trong các khu công nghiệp, khu chế biến…
Thế nên mới có giá thành điện than giá rẻ. Thoạt nghe có vẻ rất kinh tế, nhưng cũng là “bi kịch” cho việc phát triển ngành điện của chúng ta. Bởi các NM nhiệt điện đang sử dụng công nghệ lạc hậu, công nghệ cũ, nói thẳng là công nghệ thải loại từ các quốc gia tiên tiến để vận hành”, TS Bình nhận xét và khẳng định một điều theo ông là “không mới”, rằng chúng ta làm ra điện giá rẻ để phát triển kinh tế và đang trả giá bằng việc hít thở môi trường không khí ô nhiễm hằng ngày.
Theo Báo Thanh Niên